Phát triển khả năng sáng tạo của người dạy Piano phổ thông

line
04 tháng 03 năm 2019

PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO

CỦA NGƯỜI DẠY PIANO PHỔ THÔNG

Hà Mai Hương

         Trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc hàn lâm, cây đàn Piano đóng một vai trò quan trọng, là một loại nhạc cụ phổ biến nhất với một số lượng người học đông đảo nhất không chỉ tại Việt Nam mà còn trên thế giới. Với khả năng thể hiện phong phú và đa dạng, Piano có thể biểu diễn một cách độc lập mà không cần bất cứ một nhạc cụ nào khác hỗ trợ mà vẫn đạt được hiệu quả cao về nghệ thuật. Không những thế, do tính chất đa thanh, Piano có thể giữ vai trò là nhạc cụ hòa tấu hoặc đệm cho cho thanh nhạc và các loại nhạc khí khác. Chính vì vậy, cây đàn Piano là một nhạc cụ thông dụng và rất cần thiết cho những người hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp và không chuyên. Làm chủ kỹ năng chơi Piano tốt sẽ là cơ sở cho việc hình thành và phát triển tư duy sáng tạo, ngoài ra còn giúp mở rộng kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi đối với tất cả những đối tượng đang nghiên cứu âm nhạc nói chung, hoặc các môn nhạc cụ khác nói riêng. Tại các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp trên thế giới, Piano phổ thông đã được đưa vào chương trình đào tạo chính khóa cho các HSSV đang theo học các ngành âm nhạc là bắt buộc và được đưa vào chương trình thi hàng năm.


       Tuy nhiên, trong lĩnh vực đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp tại Việt Nam, có nơi có lúc sự hiểu biết và đánh giá đúng vai trò, vị trí của đàn Piano còn chưa đầy đủ. Vấn đề trang bị kỹ năng Piano cho các chuyên ngành khác còn chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay việc giảng dạy môn Piano phổ thông tại các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp trên cả nước chưa có tính đồng bộ, chưa có sự thống nhất về chương trình, giáo trình và nội dung giảng dạy. Yêu cầu chuẩn đầu ra cũng như trình độ bắt buộc cho từng năm học không được qui định rõ ràng và chặt chẽ. Nội dung giảng dạy chưa phù hợp với đặc thù của từng ngành học nên kết quả thu được chưa cao. Điều này đã phần nào tạo nên những cản trở trong việc củng cố kiến thức nền tảng và phát triển khả năng cảm thụ nghệ thuật của HSSV.

Trong lĩnh vực đào tạo Piano vẫn còn tâm lý coi trọng dạy Piano chuyên ngành và xem nhẹ vấn đề giảng dạy Piano phổ thông, mục tiêu đào tạo cho từng chuyên ngành chưa được xác định rõ... Do đó, trước tiên chúng tôi cho rằng cần phải phân biệt được sự khác nhau giữa giảng dạy Piano chuyên ngành và Piano phổ thông, xác định được mục đích của giảng dạy Piano phổ thông đối với từng chuyên ngành cụ thể để xây dựng các tiêu chí đào tạo phù hợp.


     Xuất phát từ thực tế là cùng hướng đến khả năng nắm bắt Piano nhưng vì mục đích đào tạo giữa Piano chuyên ngành và Piano phổ thông là khác nhau nên yêu cầu đào tạo cũng không giống nhau. Nếu như trong đào tạo Piano chuyên nghiệp luôn chú trọng đến vấn đề rèn luyện cho người học tâm lý biểu diễn, bản lĩnh sân khấu và việc  xử lý các tác phẩm với yêu cầu hoàn hảo cao;  thì ngược lại, với đối tượng học không chuyên, Piano chỉ là công cụ, phương tiện bổ trợ cho chuyên ngành chính nên không thể đòi hỏi cao với người học trong xử lý các tác phẩm và số lượng lớn bài vở phải hoàn thành trong từng năm mà phải tùy theo từng ngành học để có những điều chỉnh, lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp.

         Mục đích của việc giảng dạy là trang bị kỹ thuật chơi Piano ở một trình độ nhất định cho người học, làm phương tiện phục vụ cho việc học tập từng chuyên ngành riêng, giúp cho người học có thể tự nghiên cứu, tiếp cận các tác phẩm âm nhạc nhằm mở rộng kiến thức, phát triển tư duy âm nhạc và nâng cao trình độ cảm thụ âm nhạc.

 

            Vấn đề tạo dựng cho người học thói quen làm việc độc lập, có nhận thức đúng đắn về mục đích của việc học đàn Piano nhằm xây dựng động cơ tích cực trong quá trình học tập, biết vận dụng kỹ năng chơi đàn Piano để hỗ trợ trực tiếp vào từng chuyên ngành (đệm hát, nghiên cứu tác phẩm...) được quan tâm hàng đầu.

Chúng ta đều biết, bất kỳ một hệ thống đào tạo nào cũng phải hội đủ các yếu tố chính như: người dạy, người học, chương trình giáo trình cơ sở vật chất thích ứng. Chất lượng giáo dục của mọi cơ sở đào tạo đều phụ thuộc vào trình độ năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm cũng như phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Chính vì lẽ đó mà hơn bao giờ hết, vai trò của người thầy giáo có ý nghĩa hết sức cần thiết và là chủ thể tác động vào mọi nhân tố của quá trình giáo dục. Đặc biệt, vai trò này tác động trực tiếp đến quá trình nhận thức của người học thông qua các chức năng định hướng, khơi gợi, điều chỉnh... nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp cho quá trình phát triển khả năng thể hiện của người học.

 

Dạy Piano phổ thông hoàn toàn khác với dạy Piano chuyên ngành, đa số người học đã có trình độ âm nhạc ở một mức độ nhất định đòi hỏi giảng viên không chỉ trau dồi trình độ tay đàn Piano mà còn phải không ngừng tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa chung cũng như kiến thức âm nhạc nền tảng. Ngoài ra, người dạy cũng phải có những kiến thức về các chuyên ngành âm nhạc khác: Thanh nhạc, Sáng tác, Lý luận, Chỉ huy và các loại nhạc khí để tạo được sự gắn kết, bổ trợ kiến thức giữa Piano với các ngành học nhằm đạt được hiệu quả cao trong quá trình truyền đạt kiến thức. Giảng viên có thể sử dụng các thuật ngữ, kiến thức chuyên ngành khi lên lớp nhằm tạo sự gần gũi giữa Piano với các ngành học (chẳng hạn như  yêu cầu học viên phân tích và thể hiện được trên đàn sự tương phản giữa chủ đề chính và chủ đề phụ, làm rõ màu sắc hoà thanh trong phần chuyển điệu, tìm ra motiv âm hình chủ đạo của chủ đề mở đầu hoặc yêu cầu thể hiện rõ các phần chủ đề trong các bài tập Phức điệu… ) đối với các ngành Lý luận, Sáng tác, Chỉ huy. Hoặc đối với ngành Thanh nhạc, giảng viên phải hướng dẫn người học tư duy trong xử lý câu nhạc, đoạn nhạc một cách tinh tế, chú ý cách phát âm câu nhạc như khi hát, biết cách thở theo từng nét nhạc...

            Đặc điểm của người học, những khó khăn và thuận lợi:

Đối tượng cần được trang bị kỹ năng Piano mà chúng tôi đang đề cập ở đây là những thanh niên trong độ tuổi trưởng thành, đã có sự phát triển khá hoàn chỉnh về thể chất và tâm sinh lý. Tuy nhiên do đầu vào đa dạng, không thống nhất về độ tuổi và trình độ, một số lại chưa được làm quen với đàn Piano vì thế mà việc giảng dạy cho các đối tượng này là khá khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có sự khéo léo, kiên trì và sáng tạo từ phía người dạy. Ngoài ra, học Piano ở độ tuổi lớn sẽ gặp nhiều khó khăn do cơ tay cứng, độ nhanh nhạy, linh hoạt của các ngón tay lại hạn chế nên học viên khó điều khiển các ngón tay để đạt được yêu cầu của kỹ năng chơi Piano. Tuỳ theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh và với từng đối tượng cụ thể, giảng viên phải tạo ra các cơ hội và phương pháp học tập đa dạng để người học có thể lựa chọn loại hình phù hợp với mình.

      Ngoài những khó khăn đã nêu trên, những đối tượng học lớn tuổi này (nếu so sánh với học sinh sơ cấp được tuyển vào Piano chuyên nghiệp từ lứa tuổi nhỏ) cũng có một số thuận lợi nhất định do đã trưởng thành trong nhận thức, có một mặt bằng nhất định về kiến thức cơ bản nên người học bắt tay vào học tập với các mục tiêu và động cơ mạnh mẽ hơn.

Những yêu cầu đối với một giảng viên có năng lực bao gồm các tiêu chuẩn sau:

- Có trình độ chuyên môn cao, có kiến thức vững vàng về các lĩnh vực âm nhạc và tâm lý sư phạm.

- Sử dụng nội dung đào tạo, chương trình, giáo trình phù hợp.

- Có quan điểm đào tạo đúng, phương pháp đào tạo khoa học.

Bên cạnh những yêu cầu chung về năng lực người thầy như đã đề cập ở trên, đối với đội ngũ giảng viên giảng dạy Piano phổ thông phải có sự chuyên môn hóa cao: Phân trách nhiệm giảng dạy cho từng chuyên ngành hoặc từng nhóm chuyên ngành để có sự đầu tư nghiên cứu chuyên sâu; người dạy cần có sự nhạy bén linh hoạt với từng đối tượng học để có thể lựa chọn giáo trình và phương pháp phù hợp.

Trong quá trình giảng dạy, nhất thiết giảng viên phải xây dựng được nội dung đào tạo phù hợp với đặc thù của từng ngành học, chẳng hạn như với các chuyên ngành Lý luận – Sáng tác - Chỉ huy, tăng cường yêu cầu về thị tấu, hoà tấu bốn tay. Với chuyên ngành Thanh nhạc, tăng cường khả năng tự học thông qua việc giao một số bài tập cho sinh viên tự làm việc, giảng viên tiến hành kiểm tra cuối mỗi đợt; chú trọng việc trang bị kỹ thuật luyện Gam để đáp ứng cho công việc luyện thanh và định vị âm chuẩn; ngoài ra cũng phải tăng cường rèn luyện thị tấu đơn giản, đặc biệt là phải biết dịch giọng một cung và nửa cung.

Lựa chọn bài phù hợp với trình độ người học, tạo cơ hội cho học viên được làm quen với nhiều trường phái, ngôn ngữ âm nhạc của các thời kỳ khác nhau (có thể không bắt buộc phải đàn hết toàn bộ tác phẩm, chọn tác phẩm không quá phức tạp, chỉ đàn trích đoạn hoặc đàn các chủ đề chính, phụ).

         Tóm lại, chúng ta không thể yêu cầu ở những đối tượng học này sự hoàn hảo trong xử lý các tác phẩm và khối lượng bài vở phải hoàn thành như là đối với người học Piano chuyên nghiệp. Điều quan trọng ở đây là vấn đề trang bị những kỹ năng Piano nền tảng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất, hỗ trợ cho việc nghiên cứu chuyên sâu vào từng ngành học. 

Đổi mới phương pháp trong giảng dạy - học tập

Hiện nay việc đổi mới phương pháp giảng dạy đang là một đòi hỏi hết sức bức thiết trong công tác đào tạo

Yêu cầu của xã hội đặt ra cho con người là phải phát huy không ngừng tính năng động, sáng tạo, tích cực, chủ động, tự  học hỏi để bắt kịp với yêu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước. Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giảng viên không ngừng tìm kiếm các phương pháp dạy học mới, kết hợp khéo léo với các phương pháp truyền thống hiện có trên cơ sở bảo đảm phù hợp với nội dung giảng dạy theo hướng nâng cao năng lực nội sinh của người học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự khábm phá để chiếm lĩnh tri thức. 

Trong quá trình lên lớp giảng viên có thể sử dụng một số phương pháp sau:

- Phương pháp qui nạp: có hai loại. Quy nạp hoàn toàn và Quy nạp không hoàn toàn.

Để áp dụng trong giảng dạy, cần phải sử dụng phương pháp quy nạp hoàn toàn. Có nghĩa là phải đi từ cái riêng (chi tiết) để đi đến nhận thức chung (tổng thể) nội dung của vấn đề nghiên cứu.

Trong giờ học việc biểu diễn thị phạm cũng như sự giới thiệu và phân tích của giảng viên về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, cách thể hiện tác phẩm đó đúng với phong cách sáng tác của tác giả... giúp cho học viên đi từ những cảm nhận riêng lẻ đối với từng tác phẩm âm nhạc cụ thể đến một nhận định chung về đặc điểm sáng tác, phong cách âm nhạc của mỗi thời kỳ, mỗi trường phái, qua đó tìm ra cách giải quyết các vấn đề về kỹ thuật.

            - Phương pháp hình thành hứng thú nhận thức:

         Được thể hiện thông qua các  bước: xúc cảm đối với hoạt động; có nhận thức  đối với xúc cảm này. Như vậy có thể nói rằng trong quá trình dạy học, điều quan trọng là phải làm phát sinh những xúc cảm lành mạnh đối với hoạt động học tập.

      Để làm được điều này, trong quá trình dàn dựng vào tác phẩm, giảng viên phải thường xuyên đàn mẫu cho học viên nghe (theo cách đánh giá của các nhà chuyên môn: thị phạm là con đường ngắn nhất đưa người học đến với tác phẩm, gợi mở sự hình dung về tác phẩm), kết hợp giảng giải và phân tích về nội dung, cấu trúc, hình thức, cách xử lý về kỹ thuật, cách phân câu, phân đoạn khi thể hiện một ý nhạc, giới thiệu và định hướng những tài liệu nghe nhìn cần tham khảo. Điều này sẽ giúp cho người học cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc nhất, hình thành xúc cảm nghệ thuật khi tiếp cận tác phẩm.

Các phương pháp kích thích nghĩa vụ và trách nhiệm học tập:

Qúa trình dạy học không chỉ dựa vào hứng thú nhận thức mà còn dựa vào nhiều yếu tố khác, trong đó nghĩa vụ và trách nhiệm của HSSV đối với vấn đề học tập có ý nghĩa đặc biệt. Ý nghĩa về nghĩa vụ và trách nhiệm được hình thành trên cơ sở sử dụng nhiều biện pháp khác nhau: giải thích cho người học ý nghĩa của việc học đàn Piano; đưa ra những yêu cầu để cụ thể hóa nghĩa vụ của người học và giao cho họ thực hiện những yêu cầu đó; khen thưởng khi họ hoàn thành nhiệm vụ; kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ được giao và chỉ ra những khuyết điểm, sai sót.

- Phương pháp học theo nhóm [4]:

Dạy học theo nhóm (cần phải hiểu ở đây vẫn là lên lớp cá nhân trước một nhóm để có sự quan sát, đóng góp ý kiến, học không thụ động) là một dạng của dạy học tích cực. Khi dạy học theo nhóm các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân người học được tổ chức lại và liên kết với nhau trong hoạt động chung nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập. Người học tham gia tích cực, biểu hiện qua các hoạt động: quan sát một thành viên trong nhóm trình bày một tác phẩm cụ thể, lắng nghe những đánh giá góp ý của giảng viên (giảng viên thể hiện lại tác phẩm đó hoặc phân tích những chỗ cần điều chỉnh, giảng viên cũng có thể giới thiệu tác phẩm đó qua các nguồn tài liệu nghe nhìn khác). Mọi thành viên trong nhóm có thể tham gia đóng góp ý kiến, qua đó nhu cầu khám phá, tìm tòi và sáng tạo của học viên được nảy sinh rất hữu ích cho việc lĩnh hội những tri thức mới. Trước một vấn đề mới, học viên nảy sinh nhu cầu cùng hợp tác trao đổi với các thành viên trong nhóm để tìm ra cách giải quyết (so sánh và lựa chọn được cách thể hiện phù hợp nhất...).

Một số nhà giáo dục âm nhạc cho rằng, dạy âm nhạc tốt nhất là một thầy, một trò bởi vì một khi thầy giáo hiểu rõ đối tượng thì sẽ xác định được chính xác nội dung và phương pháp dạy học. Quá trình dạy học sẽ diễn ra tích cực và liên tục nên bảo đảm tính hiệu quả và lâu nay vẫn được sử dụng. Điều đó có những mặt đúng, tuy nhiên, tùy theo từng trường hợp nên có sự kết hợp với những phương pháp dạy học tích cực khác để giờ lên lớp đạt được kết quả cao nhất.

Theo quan điểm của lý luận dạy học hiện đại, những cảm xúc, những kinh nghiệm đa dạng và phong phú thường nảy sinh trong quá trình giao tiếp giữa những người học với nhau vì vậy, việc tổ chức học nhóm là hết sức quan trọng.

         Phương pháp dạy học hướng vào người học:

         Theo quan điểm dạy học hiện đại này, người thầy không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn phải biết hướng dẫn, điều chỉnh để giúp cho học viên có thể học tập một cách chủ động và sáng tạo.  Dạy học hướng vào người học là một tư tưởng giáo dục hiện đại, cần nghiên cứu và áp dụng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nhu cầu người học đang phát triển rất đa dạng để đáp ứng những đòi hỏi nhiều mặt của đời sống hiện đại, khi mà thông tin thường chỉ vận động theo một chiều từ thầy đến trò và việc phát huy tính tích cực hoạt động, chủ động, sáng tạo, tính phản biện của người học còn chưa được chú ý đúng mức. Quá trình giảng dạy chỉ thật sự có hiệu quả khi chúng ta phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học:

- Giảng viên cần khuyến khích học viên đặt ra các câu hỏi với những vấn đề muốn được khám phá, tìm hiểu. Giảng viên có thể chỉ gợi ý giúp cho học viên tự tìm ra hướng giải quyết, tạo cho họ thói quen chủ động trong học hành tập luyện.

- Chú trọng nhiều đến việc gợi mở để tạo cho người học ý thức làm việc độc lập, tạo cho người học sự tích cực hoạt động tư duy, hình thành thói quen nghiên cứu, phân tích trước khi bắt tay vào tập luyện bất kỳ một bài tập nào. Mục đích chủ yếu của việc rèn luyện khả năng phân tích là hình thành ở người học thói quen tìm hiểu sự vật có chiều sâu, hiểu được tinh thần tác phẩm cũng như những yêu cầu về kỹ thuật để tìm ra cách giải quyết hiệu quả.

 - Giảng viên có thể giúp học viên phát triển các quá trình tư duy của mình bằng cách giao nhiệm vụ cho học viên làm việc độc lập với từng tác phẩm cụ thể từ việc tìm hiểu, đánh giá tác phẩm đó, đưa ra cách giải quyết những vấn đề kỹ thuật. Giảng viên cũng có thể khuyến khích học viên linh hoạt hơn trong cách tiếp cận một bài tập, để nếu như một phương pháp này không hiệu quả, họ có thể thử các phương pháp khác. Bởi vì với thời gian được học đàn Piano là không nhiều (1tiết/tuần), khi đã có thói quen làm việc độc lập người học có thể chủ động trong vấn đề tự học và tập luyện, tự tìm ra phương án giải quyết. 

Dạy học phải đảm bảo nguyên tắc tính “vừa sức”:

Một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình dạy học là phải đảm bảo tính “vừa sức” và phù hợp với đặc điểm lứa tuổi. Ba yếu tố chính ảnh hưởng trực tiếp tới sự quá tải trong học tập là nhiệm vụ học tập, năng lực của người học điều kiện học tập. Để giải quyết được vấn đề này, phải tìm ra lời giải đáp cho các câu hỏi sau: đối tượng học có đủ khả năng tiếp thu, có đủ phương tiện và thời gian học tập và trình độ kiến thức cũng như năng lực sư phạm của giảng viên có đáp ứng được?

           Đảm bảo tính “vừa sức” trong học tập là một nguyên tắc quan trọng đòi hỏi giảng viên cần tuân thủ nghiêm ngặt trong giảng dạy. Khi khối lượng và độ phức tạp của bài vở cao hơn khả năng học tập thực tế của người học thì sẽ dẫn đến tình trạng quá tải làm rút ngắn thời gian nghỉ ngơi, giảm sức khỏe và năng lực học tập. Ngược lại, khi dung lượng và trình độ của bài học thấp hơn mức độ hợp lý, thì nhịp độ học tập giảm xuống, sự nỗ lực và ý chí học tập cũng như sự phát triển trí tuệ và hứng thú học tập đều bị giảm sút. Do đó, giảng viên phải chú ý đến việc lựa chọn bài phù hợp với trình độ, năng lực của người học làm cơ sở để có những nhận định, đánh giá chính xác về khả năng của từng đối tượng học. Ngoài ra, các điều kiện nhằm đảm bảo cho người học về phương tiện học tập (thời gian, phòng tập, tài liệu hỗ trợ...) cũng như năng lực giảng viên có ý nghĩa rất quan trọng.

         Khơi dậy lòng tự tin vào năng lực bản thân:

         Các nhà lý luận về sư phạm trên thế giới đều đi đến thống nhất trong nhận định: Sự tự tin của học viên là một phần quan trọng cho thành công trong học tập và góp phần nâng cao năng lực. Tự tin có tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự đam mê, tiếp thêm sinh lực cho học viên để đạt đuợc thành công, đặc biệt là trong việc thực hiện những nhiệm vụ mang tính thách thức.

         Nhà tâm lý học, giáo dục học nổi tiếng người Mỹ - Howard Gardner trong công trình nghiên cứu khoa học của mình công bố lần đầu năm 1983, chỉ ra rằng tất cả mọi con người đều có sự thông minh, nhưng không phải tất cả đều phát triển chúng đến cùng một cấp độ. Howard Gardner hướng sự chú ý tới những người học cụ thể và tầm quan trọng của phong cách học tập phù hợp với từng cá nhân. Ông cho rằng sức mạnh tiềm ẩn của mỗi con người là một yếu tố để phát triển năng lực học tập của họ.

         Khi chúng ta phát triển con người thông qua các điểm mạnh của họ, chúng ta không chỉ kích thích sự phát triển mà còn làm tăng niềm tin của họ về việc họ có thể vượt qua những thách thức hoặc một nhiệm vụ khó khăn nào đó. Phát triển điểm mạnh của một cá nhân sẽ tăng cường những hiệu ứng tích cực của học viên đó đối với quá trình học. Một khi sự tự tin và ý thức về giá trị tăng, họ có thể phát triển thế mạnh và cải thiện các điểm yếu.

Trong quá trình lên lớp giảng viên có thể sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ người học nâng cao tinh thần tự tin vào năng lực của mình thông qua các bước sau:

- Thẩm định những gì một học viên có thể thực hiện thành công tại bất kỳ thời điểm nào;

- Giới thiệu các bước tiến hành cho phép học viên dần dần có thể trải nghiệm thành công thông qua việc hoàn thành nhiệm vụ;

- Giúp học viên đi đúng hướng từ đó có thể nhận thấy được sự tiến bộ của mình;

- Không đưa ra những nhận xét về học viên mang tính so sánh một cách thiếu thiện cảm với các học viên khác trong lớp.

- Giảng viên cần có những lời khuyến khích, động viên học viên không chỉ về những thành công mà cả những lúc khó khăn trong quá trình học tập. 

         Như trên đã đề cập, xã hội phát triển ngày càng cao, đòi hỏi chất lượng giáo dục cũng phải được cải tiến không ngừng. Người thầy với vai trò là chủ thể của hoạt động giáo dục cũng phải không ngừng tự hoàn thiện bản thân để tạo được những tác động tích cực trong quá trình giảng dạy. Muốn cải cách nâng cao chất lượng giảng dạy cho người học, người thầy phải tự nâng cao chính mình; muốn đòi hỏi sự nỗ lực của người học trước hết phải đòi hỏi bản thân mình. Tóm lại, không có một khuôn mẫu nhất định nào áp đặt đối với người dạy mà cần phải có sự lựa chọn, vận dụng một cách linh hoạt và khéo léo các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa khả năng sáng tạo để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giảng dạy.

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

         1. Vũ Quốc Chung, Nguyễn Văn Khải, Cary J. Trexler, James Cameron... Tài liệu hướng dẫn - Tăng cường năng lực sư phạm cho giảng viên các trường đào tạo giáo viên trung học phổ thông và trung cấp chuyên nghiệp - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam - 2011.

          2. Luật Giáo dục 2005 và luật Giáo dục sửa đổi 2009 của Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành.

          3. Robert J. Marzano, Nghệ thuật và khoa học dạy học - Nhà xuất bản Giáo dục  – 2011

          4. Lê Đức Ngọc, Giáo dục đại học – Phương pháp dạy và học – Nhà  xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội – 2005

          5. Đặng Vũ Hoạt, Lý luận dạy học Đại học - Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

         6. Carl Rogers, Phương pháp dạy và học hiệu quả – (Cao Đình Quát dịch) – Nhà xuất bản Trẻ Tp HCM – 2001.

         7. Tài liệu Phương pháp giảng dạy hiện đại cho người lớn, DSL-NAPA-Khoa Phương pháp Sư phạm hành chính, Học viện Hành chính quốc gia

         8. Tài liệu Hội nghị Trung ương 4 khóa VII (1993).

         9. Tài liệu Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996).

       10. Lê Công Triêm, Nguyễn Đức Vũ, Trần Tú Anh, Những vấn đề hiện nay của phương pháp dạy học đại học – Nhà xuất bản Giáo dục – 2002.

        11. Thái Duy Tuyên, Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Nhà xuất bản Giáo dục - 2008.

    12. Vũ Văn Tảo, Vài nét về xu thế đổi mới phương pháp dạy học đại học trên thế giới - Sách Giáo dục học, Đại học Hà Nội - 2000.

          13. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006).